Báo Nhân Dân: Đại học vùng - Từ dấu ấn, thành quả đến sứ mệnh phát triển vùng và đất nước

28/09/2025

Cùng với những thành quả trong đổi mới giáo dục, đào tạo (GDĐT), phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), văn hóa và nhân tố con người trong 80 năm qua của đất nước, chặng đường hơn 30 năm xây dựng, phát triển các đại học (ĐH) vùng thể hiện rõ tiềm năng, vai trò nòng cốt đóng góp phát triển vùng và đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Ưu việt và lợi thế

Hơn 30 năm trước, với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Nhà nước đã cho thành lập 02 ĐH Quốc gia và 03 ĐH vùng (ĐH Đà Nẵng, ĐH Thái Nguyên, ĐH Huế). Khi đất nước mới mở cửa, hội nhập, các trường ĐH Việt Nam có quy mô nhỏ, năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) còn nhiều hạn chế. Nhưng nhờ được hình thành đúng thời điểm, đúng yêu cầu cần có các ĐH vùng đã nhanh chóng phát triển, khẳng định chỗ đứng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới GDĐT.

Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Vũ - Giám đốc ĐH Đà Nẵng, thực tiễn cho thấy, những ưu thế của mô hình, tổ chức ĐH vùng cũng như các ĐH Quốc gia hiện nay là phù hợp với xu thế phát triển các ĐH đa ngành, đa lĩnh vực trên thế giới trong bối cảnh cạnh tranh, xếp hạng ĐH và hội nhập quốc tế. Hơn nữa, việc mở rộng không gian kinh tế, hợp nhất các địa phương, hình thành các vùng kinh tế động lực rất cần có các trung tâm đào tạo và nghiên cứu lớn.

Các ĐH vùng có ưu việt tận dụng được thế mạnh cùng chia sẻ, dùng chung đội ngũ, cơ sở vật chất, phát huy hiệu quả trong đầu tư trọng điểm, nhất là triển khai các phòng thí nghiệm công nghệ tiên tiến, qua đó nâng cao năng lực hội nhập, cạnh tranh dựa trên lợi thế về chất lượng và quy mô. ĐH vùng còn giữ vai trò làm hạt nhân, trung tâm GDĐT, KHCN của vùng, từ đó lan tỏa, tạo động lực hỗ trợ, thúc đẩy các cơ sở giáo dục ĐH khác bắt kịp, tiến cùng.

Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao (NNL CLC) cho các lĩnh vực chiến lược, vươn lên làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nguồn đòi hỏi tri thức liên ngành, hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nếu chỉ dừng lại ở các trường đơn ngành, quy mô nhỏ, lẻ sẽ khó tồn tại, thích ứng với những thay đổi nhanh chóng, bùng nổ trí tuệ nhân tạo trong Cách mạng 4.0.


Gắn kết với các địa phương, doanh nghiệp

trong đào tạo NNL CLC, nhất là

các ngành, lĩnh vực chiến lược

Dấu ấn và thành quả

Với mô hình, cơ chế tổ chức hoạt động đã dần hoàn thiện, được định vị trong Luật Giáo dục ĐH sửa đổi số 34, các ĐH vùng đã thể hiện rõ nét những dấu ấn toàn diện, từ phát triển hệ thống, tiềm lực đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đến không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và NCKH, mở rộng hợp tác quốc tế, đổi mới quản trị ĐH theo hướng tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội, phục vụ cộng đồng.

Sau ngày đất nước thống nhất, các vùng như miền Trung - Tây Nguyên, Đông Bắc Bộ hay Trung du, miền núi phía Bắc mới chỉ có một số cơ sở đào tạo ĐH thì đến nay, quy mô, tầm vóc của các ĐH vùng như ĐH Đà Nẵng, ĐH Huế, ĐH Thái Nguyên đã thuộc top ĐH hàng đầu Việt Nam, có uy tín, vị thế trong khu vực và quốc tế.

Đơn cử ĐH Đà Nẵng với dấu ấn nổi bật đã đào tạo, cung ứng hàng chục vạn cán bộ, chuyên gia, nhà giáo, nhà khoa học, doanh nhân thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề then chốt. Nhiều cựu người học đảm nhận những vị trí chủ chốt trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và trường học; hiện diện, đóng góp phát triển các ngành trọng điểm như: Công nghệ Dầu và Khí (Khu Kinh tế Dung Quất, Nhà máy Lọc hóa Dầu Bình Sơn); Điện lực (Tập đoàn Điện Lực Việt Nam); Công nghệ Ô tô (Tập đoàn Trường Hải) hay Giao thông, Xây dựng, Ngân hàng, Công nghệ thông tin, Du lịch…

Với chiến lược chú trọng hài hòa giữa nghiên cứu cơ bản, hàn lâm với nghiên cứu ứng dụng, bám sát phục vụ phát triển các địa phương, doanh nghiệp, hàng năm ĐH Đà Nẵng thực hiện hơn 300 đề tài, dự án KHCN cấp Nhà nước, tỉnh, thành và tương đương. Tốc độ bình quân tăng công bố quốc tế trên các tạp chí uy tín (WoS/Scopus) khoảng 30% với hơn 600 bài/năm.  


Phát triển đột phá, hài hòa trong

nghiên cứu cơ bản, hàn lâm, tăng cường

công bố quốc tế với nghiên cứu

ứng dụng, chuyển giao công nghệ

ĐH Đà Nẵng luôn chủ động, tích cực phát huy đội ngũ trí thức tham gia góp ý, xây dựng và tham vấn chính sách; là “địa chỉ khoa học uy tín” tổ chức nhiều hội thảo tầm vóc quốc gia, quốc tế như: Hội thảo Khoa học Quốc gia về Phát triển các ngành dịch vụ phục vụ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa (phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương), Hội thảo Liên minh các ĐH hàng đầu đào tạo NNL phục vụ Công nghiệp Chip bán dẫn (phối hợp với Bộ GDĐT và Thành ủy Đà Nẵng), đóng góp phục vụ tổng kết, ban hành các nghị quyết (phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương tham gia góp phần xây dựng Văn kiện Đại hội XIV) hay thực hiện Báo cáo Kinh tế thường niên, kịch bản tăng trưởng thành phố Đà Nẵng…

Để phát triển các ĐH lớn trên thế giới cần đến hàng chục, thậm chí cả trăm năm thì qua chặng đường 30 năm mà các ĐH vùng có sự phát triển ổn định, mạnh mẽ, khẳng định là những trung tâm đào tạo, NCKH, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội như vừa qua là thành quả đáng ghi nhận. Từ đây củng cố thêm niềm tin về cơ sở khoa học và thực tiễn, tiếp tục hoàn thiện, phát triển các ĐH vùng trong thời kỳ mới, nhất là khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển GDĐT.

Định hướng và tầm nhìn

Giám đốc ĐH Đà Nẵng Nguyễn Ngọc Vũ cho biết, thời gian đến, Nhà trường tiếp tục hoàn thiện mô hình ĐH vùng hai cấp, hợp lực lợi thế, cộng hưởng sức mạnh của các trường, đơn vị thành viên để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Động lực mới là cần khơi thông những “điểm nghẽn” về cơ chế tự chủ ĐH, tận dụng cơ hội vàng khi có các Nghị quyết, chủ trương đột phá.

ĐH Đà Nẵng tăng cường gắn kết với các chủ thể theo các định hướng: 1- Chú trọng quan hệ với các bộ, ngành, địa phương để cùng thực hiện các nhiệm vụ lớn và tham gia xây dựng, góp ý, tham vấn chính sách; 2- Tăng cường gắn kết với các trường phổ thông để nâng cao chất lượng đầu vào từ nền tảng giáo dục STEM và ngoại ngữ cho học sinh; 3- Đẩy mạnh hợp tác doanh nghiệp để đào tạo và nghiên cứu thực sự đáp ứng yêu cầu xã hội; 4- Mở rộng hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm, nhất là trong đổi mới quản trị ĐH tiên tiến.

Các ĐH vùng được trao quyền tự chủ cao có thể linh hoạt, nhạy bén, kịp thời mở các ngành đào tạo mới như: Vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, robot và tự động hoá, công nghệ số, công nghệ sinh học, vật liệu mới và năng lượng tái tạo, công nghệ tài chính… mà không phải cơ sở giáo dục ĐH nào cũng hội đủ tiềm lực, kinh nghiệm.


Nhóm nghiên cứu của ĐH Đà Nẵng

với công nghệ nuôi trồng và chế biến

nguyên liệu vi tảo để ứng dụng

sản xuất nhiên liệu sinh học bền vững

Thực tiễn ĐH Đà Nẵng hợp tác chặt chẽ với các ĐH Quốc gia Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, ĐH Bách khoa Hà Nội hay Trường ĐH Tôn Đức Thắng (không phân biệt công - tư), gắn kết với các địa phương như Đà Nẵng - Quảng Nam, Quảng Ngãi - Kon Tum…, các tập đoàn, doanh nghiệp lớn tạo chân kiềng vững chắc, tích cực tham gia xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế, Khu Thương mại Tự do, phát triển Công nghiệp Chip bán dẫn tại Đà Nẵng…

Đột phá trọng tâm của ĐH Đà Nẵng là tập trung mọi nguồn lực để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo và NCKH; đẩy nhanh tiến độ, chất lượng Dự án Khu Đô thị ĐH (tại Hòa Quý - Điện Ngọc) để xây dựng nền tảng vững chắc, phấn đấu phát triển thành ĐH Quốc gia.

Đây là chủ trương, nhiệm vụ theo tinh thần của Nghị quyết số 26-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị, được cụ thể hóa trong Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục ĐH và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 452/QĐ-TTg. Đây không phải để thay đổi danh xưng mà là để được đầu tư trọng điểm, trao quyền tự chủ cao nhất, đáp ứng yêu cầu, sứ mệnh phát triển NNL CLC, đột phá bằng KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.


Báo Nhân Dân

In
267 Đánh giá bài viết:
5.0

BÀI VIẾT MỚI