Mục tiêu chiến lược của Đại học Đà Nẵng là xây dựng một đại học vùng thống nhất bao gồm nhiều trường đại học và các trường thành viên

25/06/2019

 

Mục tiêu lâu dài

Mục tiêu lâu dài là phát triển Đại học Đà Nẵng thành đại học đẳng cấp quốc tế, được xếp hạng cao trong danh sách các trường đại học hàng đầu của thế giới. Để đạt mục tiêu này, nhà trường cần có kế hoạch phấn đấu dài hạn, đầu tư con người và cơ sở vật chất, xây dựng uy tín trong nước và trên thế giới.

Mục tiêu trung hạn

Nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học để đưa Đại học Đà Nẵng lọt vào bảng xếp hạng của các trường Đại học hàng đầu của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương

Mục tiêu đến năm 2020

Tổ chức lại công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học để thực sự trở thành Đại học nghiên cứu vào năm 2020.

Dự kiến lộ trình đạt được các mục tiêu chiến lược

Để đạt được mục tiêu dài hạn đã xác định, Đại học Đà Nẵng cần xác lập các bước đi cụ thể cho từng giai đoạn. Bảng sau đây trình bày dự kiến các mốc thời gian đạt được các mục tiêu cơ bản trong quá trình phát triển Đại học Đà Nẵng.

STT

Kết quả đạt được

Mốc thời

gian

1

Hình thành các hạt nhân giảng dạy-nghiên cứu

2010

2

Thành lập Trường Đại học nghiên cứu tiêu chuẩn quốc tế và phát triển các trường thành viên theo định hướng nghiên cứu

2012

3

Cơ bản hoàn thành phân tầng đào tạo đại học và phân luồng

đào tạo sau đại học

2015

4

100% các chương trình đào tạo của Trường Đại học Nghiên cứu được kiểm định chất lượng bởi các tổ chức quốc tế

2018

5

Đại học Đà Nẵng đạt tiêu chuẩn của Đại học nghiên cứu

2020

6

Đại học Đà Nẵng được xếp hạng trong top 100 trường Đại học

Đông Nam Á

2025

7

Đại học Đà Nẵng được xếp hạng trong top 100 trường Đại học

Châu Á-Thái Bình Dương

2035

8

Đại học Đà Nẵng được xếp hạng trong top 500 trường Đại học

thế giới

2050

9

Đại học Đà Nẵng được xếp hạng trong top 300 trường Đại học

thế giới

2060

 

Lộ trình đạt mục tiêu dài hạn của Đại học Đà Nẵng được chia ra làm 9 bước:

  1. 2010: Hình thành các hạt nhân giảng dạy-nghiên cứu: Đây là bước cơ bản đầu tiên để đưa công tác nghiên cứu khoa học vào nề nếp. Công tác nghiên cứu khoa học ở Đại học Đà Nẵng nói riêng và ở các trường đại học Việt Nam nói chung còn rất yếu. Có nhiều lý do giải thích việc này nhưng việc đầu tư thiết bị không đồng bộ với sự phát triển đội ngũ các nhà nghiên cứu là một lý do cơ bản. Trong bối cảnh nguồn lực đầu tư còn hạn chế thì việc phát triển công tác nghiên cứu khoa học đồng thời tất cả các trường đại học hay tất cả các chuyên ngành của một trường rất khó thực hiện. Vì vậy các trường cần chọn một số ngành phù hợp để phát triển trước dưới dạng các nhóm giảng dạy-nghiên cứu (TRT: Teaching-Research Team). Các nhóm này được đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ để làm hạt nhân phát triển công tác nghiên cứu khoa học tại trường.

  2. 2012: Thành lập Trường Đại học nghiên cứu tiêu chuẩn quốc tế và phát triển các trường thành viên theo định hướng nghiên cứu: Với kinh nghiệm các nhóm giảng dạy-nghiên cứu đã hình thành, Đại học Đà Nẵng tiến hành các thủ tục cần thiết để thành lập một trường đại học nghiên cứu theo tiêu chuẩn quốc tế và từng bước phát triển các trường thành viên khác theo định hướng nghiên cứu. Điều này đồng nghĩa với việc phân tầng các bộ phận thành viên của Đại học Đà Nẵng theo hướng tiinh hoa và hướng phổ cập. Để thực hiện mục tiêu này, đến năm 2012, Đại học
    Đà Nẵng sẽ có thêm 2 trường thành viên mới: Trường Đại học nghiên cứu và Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông.

  1. 2015: Cơ bản hoàn thành phân tầng đào tạo đại học và phân luồng đào tạo sau đại học: Hoàn chỉnh việc phân tầng đào tạo đại học theo hướng tinh hoa và phổ cập và phân luồng đào tạo sau đại học theo hướng nghiên cứu và hướng chuyên nghiệp. Số lượng sinh viên tinh hoa và số lượng học viên hướng nghiên cứu ngày càng tăng: đây là tiêu chí quan trọng để phát triển nhà trường thành đại học nghiên cứu.

  2. 2018: 100% các chương trình đào tạo của Trường Đại học Nghiên cứu được kiểm định chất lượng bởi các tổ chức quốc tế: Để phát triển giao lưu quốc tế, trao đổi sinh viên với các nước, tiến tới công nhận bằng cấp lẫn nhau, các chương trình đào tạo theo hướng nghiên cứu cần được kiểm định chất lượng bởi các tổ chức uy tín trên thế giới (ví dụ ABET của Mỹ, CTI của Pháp…). Mở các chương trình dạy trực tiếp bằng tiếng Anh song song với các chương trình dạy bằng tiếng Việt, đặc biệt các chương trình sau đại học. Chất lượng đào tạo của trường được công khai cho toàn xã hội biết.

  3. 2020: Đại học Đà Nẵng đạt tiêu chuẩn của Đại học nghiên cứu: Các bước mở đường được thực hiện trong giai đoạn 2010-2020 sẽ tạo ra những kết quả vượt bậc trong nâng cao chất lượng đào tạo ngang tầm thế giới và tạo những bước đột biến trong nghiên cứu khoa học. Với cơ cấu tổ chức là một đại học đa ngành, Đại học Đà Nẵng ó nhiều lợi thế trong đa dạng hóa lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công bố kết quả nghiên cứu. Với những bước phát triển đó, Đại học Đà Nẵng thực sự trở thành Đại học nghiên cứu vào năm 2020.

  4. Đại học Đà Nẵng được xếp hạng vào các trường Đại học đẳng cấp khu vực và thế giới: Sau năm 2020, Đại học Đà Nẵng đã có một vị thế vững vàng, đội ngũ nhân lực cũng như cơ sở vật chất được xây dựng một cách đồng bộ và có hệ thống, uy tín nhà trường được thế giới biết đến, nhà trường sẽ gia tốc sự phát triển của mình để lần lượt bước vào bảng xếp hạng 100 trường đại học hàng đầu Đông Nam Á (năm 2025), 100 trường đại học hàng đầu Châu Á-Thái Bình Dương (năm 2035), 500 trường đại học hàng đầu thế giới (năm 2050) và 300 trường đại học hàng đầu thế giới (năm 2060).

Các giai đoạn thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2020

Giai đoạn chuẩn bị (2005-2010)

Giai đoạn chuẩn bị được thực hiện trong kế hoạch 2005-2010. Nội dung thực hiện

trong giai đoạn này gồm:

  1. Cải cách cơ bản việc giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ ngày nay, người cán bộ cần có khả năng ngoại ngữ tốt, đặc biệt là tiếng Anh để giao lưu, cập nhật kiến thức kịp thời và thích nghi nhanh chóng với mọi môi trường công tác. Việc dạy ngoại ngữ cho sinh viên hiện nay vướng phải những bất cập sau:

  • Sinh viên trúng tuyển vào trường có trình độ ngoại ngữ không đồng đều

Thí sinh trúng tuyển vào Đại học Đà Nẵng đến từ các địa phương khác nhau có mức độ chênh lệch về điều kiện học tập khá lớn. Những thí sinh ở các thành phố thì có điều kiện học tập tốt hơn nhiều so với các thí sinh đến từ vùng sâu vùng xa, đặc biệt là điều kiện học ngoại ngữ. Kết quả kiểm tra ngoại ngữ đầu vào cho thấy mức độ chênh lệch rất lớn về trình độ: thí sinh con em đồng bào miền núi hầu như ở trình độ bắt đầu so với thí sinh thành phố có trình độ ngoại ngữ gần như thông thạo. Bất cập về sự chênh lệch ngoại ngữ này khiến nhà trường gặp rất nhiều khó khăn trong tổ chức việc giảng dạy có hiệu quả.

  • Lớp học đông sinh viên

Để học ngoại ngữ có hiệu quả lớp học cần được phân nhỏ khoảng dưới 20 sinh viên. Thực tế hiện nay do điều kiện cơ sở vật chất của các trường chưa đảm bảo, kinh phí hạn chế nên lớp học ngoại ngữ cũng như các môn học khác đều rất đông sinh viên. Điều này làm giảm đáng kể hiệu quả giảng dạy và chất lượng tiếp thu của sinh viên

  • Phương pháp giảng dạy ngoại ngữ chưa được đổi mới kịp thời

Phần lớn giảng viên dạy ngoại ngữ cho sinh viên không chuyên ngữ vẫn sử dụng những giáo trình và phương pháp giảng dạy cổ điển, thụ động, chưa tận dụng được các công cụ hiện đại để nâng cao chất lượng giảng dạy ngoại ngữ. Kết quả là sinh viên tốt nghiệp có thể nắm vững về ngữ pháp nhưng kỹ năng giao tiếp, nghe nói rất yếu

  • Sinh viên ít có dịp giao tiếp với người nước ngoài

Việc trao đổi sinh viên, giảng viên giữa Đại học Đà Nẵng và các trường Đại học nước ngoài những năm gần đây được phát triển tốt nhưng so với nhu cầu vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy sinh viên, giáo viên ít có dịp trao đổi chuyên môn với sinh viên và giảng viên nước ngoài trực tiếp bằng ngoại ngữ. Hiện nay trong khuôn khổ các chương trình hợp tác song phương giữa Đại học Đà Nẵng với các đại học ở các nước phát triển cho phép sinh viên thực hiện các chương trình đào tạo phối hợp (twinning program) nhưng do kinh phí đào tạo nước ngoài còn cao ít có sinh viên Đại học Đà Nẵng có thể tham gia các chương trình này. Vì vậy rất hiếm sinh viên có trình độ ngoại ngữ thông thạo sau khi ra trường

Nhận thấy những bất cập trên đây, trong những năm qua, Đại học Đà Nẵng đã giao cho Trường Đại học Ngoại ngữ nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên. Đột phá đầu tiên là đào tạo lại cán bộ giảng dạy. Thông qua dự án Giáo dục Đại học II (TRIG), Đại học Đà Nẵng đã cử hơn 30 lượt cán bô giảng dạy tiếng Anh không chuyên ngữ đi thực tập phương pháp giảng dạy tại Mỹ, Úc. Các giảng viên đi thực tập về bước đầu đầu có những chuyển biến tích cực trong đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hơn. Giải pháp thứ hai là kiểm tra ngoại ngữ đầu vào cho toàn bộ sinh viên Đại học Đà Nẵng để sắp lớp phù hợp. Những sinh viên đã có trình độ ngoại ngữ cao được miễn học chương trình ngoại ngữ ở trường để có thể gian học tập chuyên môn hay học các chương trình ngoại ngữ nâng cao.

Sinh viên các chương trình tiên tiến dành năm đầu tiên để tập trung học tiếng Anh tại Viện Anh Ngữ. Nhờ học tập trung và đội ngũ giảng viên giỏi, trình độ ngoại ngữ của sinh viên tiến bộ rất nhanh chóng. Bắt đầu năm thứ hai trở đi, giờ ngoại ngữ giảm dần thay vào đó là những môn chuyên môn được dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Đây là kinh nghiệm rất tốt cho trường Đại học nghiên cứu tương lai.Đại học Đà Nẵng đã đàm phán với Tổng Lãnh sự quán Mỹ ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hội Đồng Anh về việc gửi giảng viên tiếng Anh tình nguyện sang dạy bổ sung cho sinh viên Đà Nẵng. Các giảng viên này sẽ giúp cho sinh viên cải thiện khả năng nghe nói trực tiếp bằng tiếng Anh.

  1. Tuyển thêm cán bộ mới có năng lực và sức bật để gửi ra nước ngoài đào tạo

Để đáp ứng yêu cầu của đội ngũ cán bộ trong giai đoạn phát triển Đại học Đà Nẵng thành Đại học nghiên cứu ngay trong giai đoạn này chúng ta cần nhanh chóng tuyển dụng những cán bộ trẻ xuất sắc, có năng lực chuyên môn và khả năng ngoại ngữ để gửi ra nước ngoài đào tạo một cách bài bản. Chủ trương này mang lại nhiều lợi ích thiết thực:

  • Chương trình và phương pháp giảng dạy liên tục được đổi mới. Nhờ học tập ở nước ngoài, cán bộ trẻ sẽ tích luỹ được nhiều kiến thức mới cũng như phương pháp giảng dạy mới thuộc lĩnh vực chuyên môn mà họ đang được đào tạo. Khi về nước họ sẽ truyền đạt những kinh nghiệm này cho đồng nghiệp và sinh viên

  • Tiếp cận được hướng nghiên cứu khoa học hiện đại

Trong quá trình thực hiện chương trình đào tạo sau đại học ở nước ngoài, các cán bộ trẻ được tham gia nghiên cứu khoa học với các nhà khoa học của các phòng thí nghiệm của các nước phát triển vì vậy có thể tiếp cận được sự phát triển của lĩnh vực khoa học công nghệ mà mình quan tâm để khi về nước tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu. Điều này giúp nhà trường mở ra được nhiều hướng nghiên cứu khoa học mới phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.

  • Tăng cường và phát triển các mối quan hệ hợp tác quốc tế

Nhờ tham gia nghiên cứu khoa học, hợp tác với các nhóm nghiên cứu nước ngoài nên khi cán bộ trẻ về nước họ tiếp tục duy trì các mối quan hệ hợp tác nghiên cứu đã thiết lập, tạo điều kiện thực hiện các đề tài nghiên cứu chung, tiến tới xây dựng các dự án hợp

tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và đào tạo.

  1. Thực hiện các dự án tăng cường năng lực, tăng cường trang thiết bị thí nghiệm đồng bộ

Trong tình hình tài chính đại học có nhiều khó khăn như hiện nay, việc đầu tư bằng nguồn lực tự có rất hạn chế vì vậy chúng ta cần tìm kiếm các nguồn đầu tư khác nhau thông qua các dự án tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học, các dự án ODA của nước ngoài, các chương trình phát triển giáo dục Đại học của Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á. Giai đoạn đầu tư chắp vá để kịp thời phục vụ nhu cầu đào tạo không còn phù hợp. Vì vậy chúng ta cần xây dựng các dự án đầu tư một cách đồng bộ và có hệ thống, cả đầu tư trang thiết bị lẫn đào tạo đội ngũ cán bộ khai thác có hiệu quả trang thiết bị.

  1. Tiến hành các dự án hợp tác quốc tế, mở rộng các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài

Để nhanh chóng cập nhật chương trình đào tạo theo các đại học tiên tiến trên thế giới chúng ta cần phát triển mạnh mẽ các dự án hợp tác đào tạo quốc tế dưới hình thức phối hợp đào tạo, đồng cấp bằng (đối với những ngành nghề chúng ta đã có đủ điều kiện) hoặc chương trình đào tạo do đại học nước ngoài cấp bằng (đối với những ngành nghề mới mà chúng ta chưa có đủ điều kiện để mở). Thông qua các chương trình này chúng ta có thể tiếp nhận được chương trình đào tạo mới, bồi dưỡng cán bộ giảng dạy để thay thế dần giảng viên nước ngoài. Cách làm này đem lại hiệu quả nhanh chóng nhưng đòi hỏi sự chuẩn bị dự án rất công phu với đối tác nước ngoài.

Hiện tại chúng ta cần duy trì và phát triển các chương trình liên kết với nước ngoài

đã được thiết lập sau đây:

+ Bậc Đại học

  • Công nghệ Dầu-Khí (Chương trình Việt-Pháp AUF, đồng cấp bằng, hợp tác với

Đại học Toulon-Var, Pháp)

  • Công nghệ thông tin (Chương trình Việt-Pháp AUF, hợp tác với Đại học

Marseille, Pháp)

  • Xây dựng dân dụng và công nghiệp (Chương trình Việt-Nhật, hợp tác với Đại học

Nagaoka, Nhật Bản)

  • Quản trị Kinh doanh (Hợp tác với Đại học Sunderland, UK, và Townson, USA)

+ Bậc Sau Đại học

  • Logistique (Hợp tác với Đại học Liege, Bỉ)

  • Quản trị Truyền thông (Hợp tác với Đại học Stirling, UK)

  • Marketing sản phẩm và dịch vụ y tế (Hợp tác với Đại học Nantes, Pháp)

  • Khoa học máy tính (Hợp tác với Đại học Nice Sophia Antipolis, UNS, Pháp)

  • E-Tourisme (UNS)

  • MBA (UNS)

  • Quản lý nguồn nước (UNS)

  • Hệ thống nhúng (UNS)

Những khó khăn của các chương trình liên kết trên đây có thể kể ra như sau :

  • Trình độ ngoại ngữ của sinh viên cũng như của học viên sau đại học nói chung là yếu, không thể theo học trực tiếp chương trình bằng tiếng nước ngoài ngay từ đầu. Vì vậy phải có thời gian chuẩn bị ngoài ngữ. Điều này làm tăng chi phí cho chương trình

  • Sinh viên vào học chương trình này có đầu vào thấp, thường là những sinh viên thi rớt đại học công lập và gia đình khá giả. Tình hình này có đỡ hơn đối với học viên sau đại học

  • Kế hoạch học tập khá bị động do chương trình giảng dạy phần lớn phụ thuộc giáo viên nước ngoài

  1. Củng cố các chương trình đào tạo tiên tiến

Để khắc phục những vướng mắc của các chương trình liên kết đào tạo trên đây, Bộ Giáo dục-Đào tạo đã cho phép các trường tiến hành thí điểm một số chương trình tiên tiến. Chương trình này cho phép chúng ta chủ động hoàn toàn trong kế hoạch đào tạo, tuyển chọn được sinh viên giỏi do kinh phí chương trình vẫn còn được Nhà nước bao  cấp. Chương trình tiên tiến là chương trình được “nhập khẩu” từ các nước phát triển. Đây là các chương trình sử dụng nội lực của chúng ta là chính nên đầu tư rất lớn. Vì vậy chúng ta cần lựa chọn ngành phù hợp và phát triển từng bước. Hiện tại, Trường Đại học Bách Khoa đang thực hiện 4 chương trình tiên tiến:

  • Hệ thống số (Chương trình tiên tiến, hợp tác với University of Washington, Seatle, USA)

  • Hệ thống nhúng (Chương trình tiên tiến, hợp tác với Porland State University,Oregan, USA)

  • Sản xuất tự động (Chương trình Kỹ sư chất lượng cao, hợp tác với Đại học Bách Khoa Quốc Gia Grenoble, Pháp)

  • Tin học Công nghiệp (Chương trình Kỹ sư chất lượng cao, hợp tác với Đại học Bách Khoa Quốc Gia Grenoble, Pháp)

Kinh nghiệm của các chương trình này có thể được nhân rộng cho những chương trình khác trong những năm tiếp theo.

  1. Xây dựng và củng cố các nhóm giảng dạy-nghiên cứu (TRT)

Các nhóm giảng dạy-nghiên cứu TRT có thể xem như những tế bào của hệ thống nghiên cứu khoa học tại Đại học Đà Nẵng. Trong 4 năm qua, chúng ta đã tổ chức được các TRT sau đây:

  • DATIC: Nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông

  • CRePA: Nghiên cứu sản xuất tự động

  • EPRC: Nghiên cứu công nghệ môi trường

  • CREA: Nghiên cứu phát triển động cơ-ô tô

  • GATEC: Nghiên cứu ứng dụng năng lượng thay thế

  • NANOTECH: Nghiên cứu công nghệ nano, plasma và vật liệu mới

  • NSM: Mô phỏng toán học và mô hình hóa

Các nhóm TRT nêu trên được đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và đào tạo cán bộ. Cho tới nay, các nhóm TRT đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt đào tạo sau đại học. Các công trình nghiên cứu có giá trị, các bằng phát minh sáng chế được áp dụng trong công nghiệp của Đại học Đà Nẵng cũng xuất phát từ các công trình nghiên cứu của các nhóm TRT.

Trên cơ sở kinh nghiệm của các nhóm giảng dạy-nghiên cứu đã được hình thành tại Trường Đại học Bách Khoa, trong giai đoạn này chúng ta sẽ củng cố và tăng cường thêm các nhóm giảng dạy-nghiên cứu cả về số lượng lẫn chất lượng.

Giai đoạn xây dựng các hạt nhân nghiên cứu (2011-2015)

1.Phát triển các nhóm giảng dạy-nghiên cứu, các chương trình tiến tiến ở tất

2.Tiến hành xây dựng các cơ sở tại Làng Đại học Đà Nẵng, mở rộng mặt bằng Trường Đại học Bách Khoa

3.Xây dựng trường Đại học chuyên ngành Công nghệ thông tin và truyền thông (Danang College of Information Technology and Communication, DCITC)

4.Xây dựng Trường Đại học Nghiên cứu (DROU: Danang Research OrientedUniversity)

Giai đoạn gia tốc (2016-2020)

Sau khi kết thúc giai đoạn chuẩn bị, kể từ năm 2016 Đại học Đà Nẵng sẽ gia tốc sự phát triển của mình theo định hướng nghiên cứu để thực sự trở thành Đại học nghiên cứu vào năm 2020. Các tiêu chí trong giai đoạn này như sau:

< >Trường Đại học nghiên cứu có trên 50% tổng số sinh viên là học viên sau đại học

< >Các trường thành viên còn lại có 30% tổng số sinh viên là học viên sau đạihọc

< >Tất cả các chương trình của Trường Đại học nghiên cứu được kiểm địnhchất lượng bởi các tổ chức kiểm định quốc tế

< >Tất cả các trường thành viên còn lại của Đại học Đà Nẵng được kiểm địnhtheo tiêu chuẩn quốc gia

< >Số bài báo quốc tế hằng năm của trường đại học nghiên cứu chiếm tỉ lệ 0,7bài/1 giảng viên. Đối với các trường thành viên còn lại tỉ lệ này là 0,3

< >Số công trình nghiên cứu khoa học được ứng dụng trong công nghiệp và được cấp bằng sở hữu trí tuệ hằng năm là 5% trên tổng số giảng viên của toàn Đại học Đà Nẵng

Xem thêm: http://www.udn.vn/ortherfile/TCCB/2009/Chien_luoc_phat_trien_UD.pdf

 

 

In
369 Đánh giá bài viết:
Không có đánh giá

BÀI VIẾT MỚI